Việt Nam vào Top 15 cường quốc thương mại thế giới
Kim ngạch xuất nhập khẩu vượt 920 tỉ USD là kỷ lục chưa từng có của Việt Nam. Tuy nhiên, để con số này thực sự trở thành nền tảng cho tăng trưởng, Việt Nam cần chuyển từ mục tiêu “xuất khẩu nhiều” sang “xuất khẩu hiệu quả”.

Nền móng tăng trưởng cho giai đoạn tiếp theo
Theo số liệu từ Bộ Công Thương, năm 2025, xuất nhập khẩu lập đỉnh lịch sử hơn 920 tỉ USD. Trong đó, xuất khẩu hơn 470 tỉ USD (tăng 16% so với năm 2024). Kết quả này đã đưa Việt Nam vào Top 15 cường quốc thương mại thế giới, xếp thứ 2 ASEAN.
Trao đổi với Lao Động, PGS.TS Ngô Trí Long - chuyên gia kinh tế - đánh giá, với quy mô 920 tỉ USD, gấp hơn 2 lần GDP danh nghĩa, cho thấy mức độ mở cửa rất cao của nền kinh tế. Việc duy trì xuất siêu liên tục 10 năm, năm 2025 đạt 22 tỉ USD, không chỉ hỗ trợ tăng trưởng mà còn tạo nền tảng vững chắc cho ổn định kinh tế vĩ mô: Giảm áp lực lên cán cân thanh toán, củng cố dự trữ ngoại hối và ổn định tỉ giá” - PGS.TS Ngô Trí Long đánh giá.
Ngoài ra, quy mô nhập khẩu chiếm gần một nửa trong tổng kim ngạch phản ánh mức độ phục hồi và mở rộng của hoạt động sản xuất trong nước. Cơ cấu nhập khẩu với tỉ trọng rất cao của máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu cho thấy, tăng trưởng xuất nhập khẩu năm 2025 không mang tính “thương mại thuần túy”, mà gắn chặt với chuỗi sản xuất - đầu tư - xuất khẩu.
PGS.TS Ngô Trí Long cho rằng, xuất nhập khẩu tiếp tục là một trụ cột quan trọng giúp kinh tế Việt Nam duy trì đà tăng trưởng trong năm 2025. Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận 920 tỉ USD không đồng nghĩa với tăng trưởng chất lượng cao. “Để con số này thực sự trở thành nền tảng cho tăng trưởng nhanh và bền vững, trọng tâm chính sách cần chuyển từ “mở rộng quy mô” sang nâng cao chất lượng và chiều sâu của tăng trưởng ngoại thương” - PGS.TS Ngô Trí Long nhấn mạnh.

Đồ họa: Văn Thắng
Thoát “bẫy gia công”, tăng hàm lượng nội địa
Đánh giá về kim ngạch xuất khẩu năm 2025, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng - Giảng viên cao cấp Viện Thương mại và Kinh tế Quốc tế (Đại học Kinh tế Quốc dân) - cho rằng, con số hơn 920 tỉ USD phản ánh hiệu quả trong điều hành chính sách xuất nhập khẩu cũng như năng lực thích ứng của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng lưu ý khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn đang chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Điều này phản ánh sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, cũng như khả năng tham gia sâu của Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy nhiên, mặt trái của thực tế này là giá trị gia tăng giữ lại trong nước còn tương đối hạn chế. Phần lớn lợi nhuận cuối cùng vẫn thuộc về các tập đoàn mẹ ở nước ngoài, trong khi Việt Nam chủ yếu hưởng lợi từ tiền lương lao động, thuế và các khoản cho thuê đất, hạ tầng.
“Việt Nam không thể tiếp tục dựa quá nhiều vào mô hình thu hút FDI thuần túy theo hướng "gia công, lắp ráp". Cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp trong nước tham gia sâu hơn vào các dự án FDI, kể cả dưới hình thức góp vốn, liên doanh, liên kết hoặc từng bước cổ phần hóa.
Khi đó lợi ích sẽ được phân bổ hài hòa hơn, doanh nghiệp Việt Nam cũng có điều kiện để học hỏi công nghệ, kỹ năng quản trị và kinh nghiệm tham gia thị trường quốc tế” - PGS.TS Nguyễn Thường Lạng nhấn mạnh.
Một lưu ý lớn khác liên quan trực tiếp đến chất lượng của hoạt động xuất khẩu là hàm lượng nội địa trong hàng hóa xuất khẩu còn thấp. Nhiều ngành xuất khẩu chủ lực vẫn phụ thuộc lớn vào nguyên phụ liệu, linh kiện nhập khẩu. “Điều này khiến Việt Nam dễ rơi vào "bẫy gia công” - vị chuyên gia này lưu ý.
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng cho rằng, thị trường thế giới đang yêu cầu ngày càng cao về phát triển bền vững và truy xuất nguồn gốc. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư nhiều hơn cho công nghệ sạch, quy trình sản xuất thân thiện với môi trường và hệ thống quản trị hiện đại.
“Việt Nam cần chuyển từ mục tiêu “xuất khẩu nhiều” sang “xuất khẩu hiệu quả”. Chỉ khi giải quyết được những vấn đề cốt lõi này, xuất nhập khẩu mới đạt mục tiêu tăng trưởng 10% trong giai đoạn tới” - PGS.TS Nguyễn Thường Lạng khuyến nghị.




In bài viết
