• :
  • :

Sáng mãi một tinh thần Hà Nội

Sau khi ký Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có những nhượng bộ nhất định nhằm bảo vệ nền độc lập non trẻ của đất nước.

Tuy nhiên, thực dân Pháp ngày càng ngang ngược, liên tiếp đưa ra các yêu sách xâm hại đến độc lập và chủ quyền của Việt Nam. Không chịu khuất phục, tối ngày 19-12-1946, pháo đài Láng đã bắn loạt đạn đầu tiên mở màn cho cuộc kháng chiến chống Pháp kiên cường của dân tộc Việt Nam.

toan-quoc-khang-chien.jpg

Chướng ngại vật được dựng lên cuối phố Huyền Trân Công Chúa, Hà Nội tháng 12-1946. Ảnh: Tư liệu

Dã tâm của thực dân Pháp và sự chủ động của ta

Trong hồi ký “Chiến đấu trong vòng vây - Trận Hà Nội”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể rằng, trước âm mưu của thực dân Pháp, tại Hội nghị quân sự toàn quốc họp ngày 19-10-1946, Trung ương Đảng đã nhận định: “Nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”. Hội nghị đã vạch ra nhiệm vụ, kế hoạch cho cả nước chuẩn bị sẵn sàng kháng chiến, nhất là ở Thủ đô Hà Nội. Để không bị động, Trung ương Đảng đã thành lập Chiến khu Hà Nội còn gọi là Chiến khu 11, đồng thời thành lập Mặt trận Hà Nội, phân công Bí thư Thành ủy Nguyễn Văn Trân làm Bí thư Đảng ủy Mặt trận kiêm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ Khu 11. Ông Vương Thừa Vũ là Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội, ông Hoàng Văn Thái là Tổng Tham mưu trưởng Khu 11.

Cuối tháng 11-1946, Mặt trận Hà Nội hình thành ba liên khu là I, II và III để thực hiện phương châm tác chiến “Trong đánh ngoài vây, trong ngoài cùng đánh”. Cũng trong tháng 11, các cơ quan, nhà máy Trung ương và Hà Nội được lệnh di chuyển tài liệu, thiết bị, máy móc lên Việt Bắc để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Nhà máy in Tô-panh (số 5 phố Lê Duẩn ngày nay) chuyên in tiền đã chuyển lên xã Lạc Thủy, Hòa Bình. Ủy ban tản cư của Thành phố cũng vận động nhân dân tản cư về các vùng quê để đảm bảo tính mạng.

Trung tướng Vương Thừa Vũ, nguyên Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Nội mùa đông lịch sử năm 1946 viết về những ngày căng thẳng trước giờ nổ súng 19-12-1946 trong cuốn “Hà Nội 60 ngày khói lửa”: “Giặc Pháp tổ chức ngày càng nhiều những cuộc diễu binh thị uy trên các đường phố và nhiều cuộc tập trận giả chiến thuật tấn công ở các vườn hoa Hà Nội. Chúng vẫn âm mưu dùng áp lực quân sự bắt ta phải nhượng bộ từng bước và cuối cùng phải đầu hàng. Tháng 11-1946, không khí Thủ đô Hà Nội đã trở nên vô cùng căng thẳng...”.

Sang đầu tháng 12, quân Pháp liên tiếp có các hành động khiêu khích. Ngày 4-12, chúng đốt Nhà thông tin Bờ Hồ (75 phố Đinh Tiên Hoàng ngày nay), đây là vụ việc vô cùng nghiêm trọng vì xảy ra ngay tại trung tâm thành phố. Chiều 7-12-1946, quân Pháp chiếm đóng nhà Ngân hàng Pháp - Hoa (nay là 21 phố Ngô Quyền). Ngày 10-12, Pháp lại cho quân đặt mìn phá hủy công sự của tự vệ trước Tòa Đốc lý (nay là UBND thành phố Hà Nội), Bắc Bộ phủ (nay là 12 phố Ngô Quyền), Ngân hàng Đông Dương (nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)...

Ngày 16-12, quân Pháp nổ súng khiêu khích, gây rối ở các phố nay là Lò Đúc, Hàng Bột, Hàng Khoai, Đồng Xuân..., nhưng Vệ quốc đoàn và Tự vệ thành Hà Nội không bị mắc mưu, tuân thủ kỷ luật, chờ lệnh mặt trận. Dân trong thành phố vắng hơn, đường thưa thớt người đi lại, những nhà buôn chưa tản cư đã đóng cửa hàng, không khí thành phố ngột ngạt như chuẩn bị có cơn bão lớn. Sau này, theo lời kể của các đội viên Đội tự vệ thành Hà Nội, thời điểm này mọi người truyền tay nhau đọc bài “Kháng chiến trong thành phố” của Tổng Bí thư Trường Chinh đăng trên báo Sự Thật hướng dẫn cách đánh du kích trong thành phố.

Ngày 16-12-1946, tại trụ sở của Bộ Chỉ huy Mặt trận Hà Nội ở Hà Đông, Chỉ huy trưởng Vương Thừa Vũ đã báo cáo toàn bộ công tác chuẩn bị tác chiến của lực lượng vũ trang Hà Nội với các đồng chí trong cơ quan Tổng chỉ huy là Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái. Vệ quốc đoàn, dân quân tự vệ, công an xung phong toàn thành đã làm lễ tuyên thệ với lời thề “Sống chết với Thủ đô”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, sẵn sàng chờ lệnh là thực hiện.

Ở ngã ba phố Yên Ninh - Hàng Bún hiện nay vẫn còn tấm bia căm thù với dòng chữ: “Khắc sâu căm thù. Nơi đây thực dân Pháp đã tàn sát đồng bào ta, mở đầu cuộc gây hấn của chúng ở Thủ đô Hà Nội ngày 17-12-1946”. 79 năm trước, tối 16-12, một xe ô tô chở lính Pháp chạy tới phố Hàng Bún, chúng ngang nhiên bắn chết một tự vệ đang đứng gác và bắt cóc một chiến sĩ khác đưa lên xe. Sáng ngày 17-12-1946, chúng cho máy bay trinh sát lượn khắp bầu trời Hà Nội. Dưới đường phố, một trung đội lính lê dương mang súng tiểu liên có xe tăng yểm trợ vây chặt khu vực ngã ba Hàng Bún - Yên Ninh. Tại đây, chúng bắt giữ hơn 40 người, tập trung ở ngã ba phố Yên Ninh - Hàng Bún để tra hỏi, đánh đập, khám xét và cướp đoạt tiền bạc, tư trang..., khiến nhân dân vô cùng phẫn nộ. Khi chúng tiếp tục bắt 15 phụ nữ đưa lên ô tô, đồng bào đã ùa đến bắt chúng phải trả tự do cho con em mình. Bị phản đối, bọn lính dã man nổ súng, khiến hơn 20 người dân vô tội thiệt mạng và nhiều người khác bị thương. Chỉ huy còn ra lệnh cho lính lê dương ùa vào các gia đình tàn sát, đập phá đồ đạc, châm lửa đốt nhà. Không khí ngột ngạt của ngày 17-12 chưa tan thì ngày 18-12, lính Pháp lại nã súng vào nhân dân phố Hàng Khoai, chợ Đồng Xuân. Lúc 6h40 phút, lính lê dương lại đến bao vây trụ sở Công an Hàng Đậu, 2h chiều, chúng chiếm đóng Nha Tài chính Đông Dương (nay là trụ sở Bộ Ngoại giao phố Tôn Thất Đàm) và trụ sở Bộ Giao thông (phố Trần Hưng Đạo).

Bài học về lòng quả cảm và tinh thần đoàn kết

Ngày 18-12, quân Pháp gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta đòi tước vũ khí Vệ quốc đoàn, tự vệ, công an và đội trật tự an ninh trong thành phố. Chúng ngang ngược tuyên bố, nếu sáng 20-12, những điều kiện đó không được chấp thuận thì quân đội Pháp sẽ chuyển sang hành động. Trước tình thế cấp bách, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp tại làng Vạn Phúc, tỉnh Hà Đông (nay là phường Hà Đông, Hà Nội) dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị nhận định khả năng hòa hoãn đã hết và quyết định phát động Toàn quốc kháng chiến.

Ông Trần Đức, con trai Chủ tịch Ủy ban hành chính Trần Duy Hưng kể rằng, trước khi vào Hà Đông để lên chiến khu, chiều ngày 19-12, ông được cha chở xe máy tạm biệt thành phố thân yêu nhưng chỉ đi được vài phố và quanh hồ Gươm vì nhiều phố bà con đã khiêng gường, tủ, bàn ghế chặn xe tăng của Pháp.

Theo mật lệnh, vào 20h03 phút đêm 19-12-1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ đã phá máy. Đèn điện trong thành phố phụt tắt là hiệu lệnh bắt đầu cuộc chiến đấu ở Thủ đô. Từ pháo đài Láng, Xuân Tảo, pháo binh ta bắn vào các vị trí ở trong thành và một số nơi khác. Các lực lượng Vệ quốc đoàn, Công an xung phong, Tự vệ thành Hà Nội đồng loạt tiến công các vị trí Pháp đóng quân theo kế hoạch. Và ngay trong đêm 19-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến”.

Mở đầu, Người nêu rõ thiện chí hòa bình của ta và dã tâm cướp nước ta của thực dân Pháp: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”. Người khẳng định ý chí sắt đá của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Sau ngày 19-12-1946, Trung đoàn Thủ đô và những người con ưu tú của Hà Nội, dù quân số ít hơn, vũ khí lạc hậu song họ đã kiên cường, anh dũng chống Pháp trong 60 ngày đêm, sau đó thực hiện cuộc rút lui an toàn lên chiến khu. Sau 9 năm quân ta trường kỳ kháng chiến gian khổ, thực dân Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ buộc phải ký Hiệp định Genève rút quân khỏi Việt Nam.

79 năm đã trôi qua, Ngày Toàn quốc kháng chiến 19-12-1946 vẫn mãi là bài học sâu sắc về tinh thần đoàn kết, lòng quả cảm và ý chí quyết tâm giành lại tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam.